1. Toà án trong những ngày đầu thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà.
1.1. Thiết lập Toà án Quân sự
Ngày 13-9-1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự. Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự gồm: ở Bắc bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ tại Sài Gòn, Mỹ Tho. Uỷ ban nhân dân Trung bộ và Nam bộ, trong địa hạt hai bộ ấy, có thể đề đạt lên Chính phủ xin mở thêm Toà án quân sự ở những nơi trọng yếu khác. Về thẩm quyền xét xử, Toà án quân sự xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trừ trường hợp phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật (Điều 2). Toà án quân sự xét xử tất cả các hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc sau ngày 19-8-1945. Ngoài ra, đối với những nơi ở xa các Toà án quân sự đã được thành lập theo Sắc lệnh này, thì trong những trường hợp đặc biệt, Chính phủ “có thể cho Uỷ ban nhân dân địa phương thành lập một Toà án quân sự có quyền xử trong một thời kỳ và theo đúng những nguyên tắc định trong Sắc lệnh này” (Điều 7). Về thẩm quyền theo lãnh thổ trong Sắc lệnh này chưa được đề cập đến. Ngày 26-9-1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh ấn định địa phương thẩm quyền của các Toà án quân sự. Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì thẩm quyền theo lãnh thổ của các Toà án quân sự được xác định như sau: Toà án quân sự Hà Nội xét xử các vụ án xảy ra tại thành phố Hà Nội và các tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn Tây, Hà Đông, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang; Toà án quân sự Hải Phòng xét xử các vụ án xảy ra tại thành phố Hải Phòng và các tỉnh Hải Dương, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh; Toà án quân sự tỉnh Thái Nguyên xét xử các vụ án xảy ra tại Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La; Toà án quân sự Ninh Bình xét xử các vụ án xảy ra tại Ninh Bình, Nam Đinh, Hà Nam, Thái Bình; Toà án quân sự Vinh xét xử các vụ án xảy ra tại Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam (kể cả Đà Nẵng); Toà án quân sự Quảng Ngãi xét xử các vụ án xảy ra tại các tỉnh Trung Bộ ở phía Nam tỉnh Quảng Nam; Toà án quân sự Sài Gòn xét xử các vụ án xảy ra tại thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn và tỉnh Gia Định, Tân Bình, Tây Ninh, Biên Hoà, Bà Rịa, Ô Cấp, Gò Công, Tân An, Côn Đảo; Toà án quân sự Mỹ Tho xét xử các vụ án xảy ra tại các tỉnh khác thuộc Nam Bộ.
Chỉ mười sáu ngày sau khi thành lập các Toà án quân sự nói trên, do yêu cầu của nhiệm vụ xét xử, ngày 29-9-1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh đặt một Toà án quân sự tại Nha Trang. Theo Sắc lệnh này thì Toà án quân sự Nha Trang xét xử các vụ án xảy ra tại các tỉnh Khánh Hoà, Đắc Lắk, Đồng Nai, Phan Rang, Phan Thiết (Điều 2) và do đó có sự điều chỉnh thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà án quân sự Quảng Ngãi là xét xử các vụ án xảy ra tại các tỉnh Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Định, Phú Yên (Điều 3). Đến ngày 28-12-1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh số 77C thiết lập một Toà án quân sự tại Phan Thiết và giao cho Uỷ ban nhân dân Trung bộ ấn định thẩm quyền theo lãnh thổ của các Toà án quân sự Quảng Ngãi, Nha Trang, Phan Thiết.
1.2. Thiết lập Toà án đặc biệt
Ngày 23-11-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 64 thiết lập một ban Thanh tra đặc biệt. Điều 1 Sắc lệnh quy định Ban Thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ “đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Điều 3 quy định: “Sẽ thiết lập ngay tại Hà Nội một Toà án đặc biệt để xử những nhân viên của các Uỷ ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ do ban Thanh tra truy tố”. Toà án đặc biệt do Chủ tịch Chính phủ lâm thời làm Chánh án, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Hội thẩm (Điều 4). Toà án đặc biệt có toàn quyền định, có thể tuyên án tử hình. Những án tuyên lên sẽ thi hành trong 48 giờ (Điều 6) Ban Thanh tra và Toà án đặc biệt được lập ra chỉ có tính chất tạm thời (Điều 7).
1.3. Có thể thấy rằng trong mấy tháng đầu sau ngày giành được chính quyền về tay nhân dân, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ đã rất chú trọng xây dựng bộ máy Nhà nước vì nhân dân phục vụ nói chung, trong đó có Toà án nhân dân nói riêng. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân trong năm 1945 chúng ta thấy Toà án chỉ được tổ chức một cấp, nhưng quyết định của Toà án sẽ được thi hành ngay sau khi tuyên án, không có quyền chống án, trừ người bị Toà án Quân sự kết án tử hình thì có quyền làm đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm. Trong trường hợp người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân giảm án tử hình, thì bản án chưa được thi hành mà phải chờ quyết định của Chủ tịch Chính phủ (Điều 3 Sắc lệnh ngày 13-9-1945). Cũng cần lưu ý rằng đối với Nam bộ thì bằng Sắc lệnh số 77B ngày 24-12-1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã uỷ quyền cho Ban thường vụ của Uỷ ban nhân dân Nam bộ quyền ân giảm án tử hình này, có nghĩa là kể từ ngày 24-12-1945 nếu người nào bị một trong các Toà án quân sự ở Nam bộ kết án tử hình, thì có quyền làm đơn lên Uỷ ban nhân dân Nam bộ xin ân giảm án tử hình. Quyết nghị của Ban thường vụ Uỷ ban nhân dân Nam bộ cho hay không cho ân giảm án tử hình được coi là quyết nghị của Chủ tịch Chính phủ (Điều 1).
2. Toà án trong giai đoạn từ năm 1946 đến trước công cuộc Cải cách tư pháp năm 1950.
2.1. Thiết lập hệ thống Toà án thường
2.1.1. Ngày 24-1-1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ tổ chức giải quyết các tranh chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Toà án và quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán; cụ thể như sau:
a. Theo quy định ở tiết thứ nhất thì Ban tư pháp xã được thành lập ở cơ sở cấp xã “ở mỗi xã, ban thường vụ của Uỷ ban hành chính cấp xã gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký (theo Điều 75 Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ chức chính quyền nhân dân) sẽ kiêm cả việc tư pháp. Cả ba uỷ viên trong Ban tư pháp ấy đều có quyền quyết nghị. Thư ký giữ công việc lục sự, lưu trữ công văn, làm các giấy tờ, biên bản... Mỗi tuần lễ Ban tư pháp phải họp ít nhất là một lần, họp công khai ở trụ sở của Uỷ ban” (Điều 2). Ban tư pháp xã có quyền: hoà giải tất cả các việc dân sự và thường sự; phạt các việc vi cảnh từ năm hào đến sáu đồng bạc (nếu người bị phạt không chịu nộp phạt, thì Ban tư pháp lập biên bản và đệ lên Toà án sơ cấp xét xử); thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên. Ban tư pháp xã không có quyền tịch thu tài sản của ai và cũng không có quyền bắt bớ, giam giữ ai, trừ khi có trát nã của một Thẩm phán hay khi thấy người phạm tội quả tang (Điều 3 và Điều 4).
b. Theo quy định ở tiết thứ hai thì “ở mỗi quận (phủ, huyện, châu) có một Toà án sơ cấp, quản hạt là địa hạt quận. Nếu cần một Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt được”. Toà án sơ cấp gồm có: một Thẩm phán, một lục sự và một hay nhiều Thư ký giúp việc. Mỗi tuần lễ, ít ra phải có hai phiên toà công khai: một phiên hộ và một phiên hình. Tại phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản, án từ. Ngoài ra Sắc lệnh còn quy định “ở các thành phố và thị xã, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể đặt Toà án sơ cấp tổ chức theo các nguyên tắc nói trên” (Điều 11).
c. Theo quy định ở tiết thứ ba thì “ở mỗi tỉnh và ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn - Chợ Lớn có một Toà án đệ nhị cấp. Quản hạt Toà án này theo giới hạn của địa hạt tỉnh hay thành phố. Nếu cần, một Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt được”. Đồng thời tuỳ theo sự quan trọng, các Toà án đệ nhị cấp sẽ chia ra làm bốn hạng do Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định. Ngoài các thành phố kể trên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể đặt thêm Toà án đệ nhị cấp ở các thành phố khác.
Về tổ chức trong một Toà án, thì Toà án đệ nhị cấp gồm có một Chánh án, một biện lý, một dự thẩm, một chánh lục sự và những thư ký giúp việc. Tuỳ nơi nhiều việc hay ít việc, có thể tăng thêm số Thẩm phán và lục sự, hay để một Thẩm phán kiêm nhiều chức vụ.
Về xét xử thì mỗi tuần lễ, ít ra cũng phải có hai phiên toà công khai: một phiên hộ và một phiên hình. Khi xét xử về dân sự, thương sự, Chánh án xử một mình. Khi xét xử các việc tiểu hình, phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến. (Điều 17). Theo quy định tại Điều 20, thì không thể cùng làm phụ thẩm trong một Toà án “các người thân thuộc hay thích thuộc với nhau cho đến bậc thứ ba, các người thân thuộc hay thích thuộc với các Thẩm phán hoặc với các người đương sự cho đến bậc thứ ba”và “không ai có thể làm phụ thẩm trong một việc mà mình là người đương sự hoặc đã điều tra, hoặc đã làm chứng hay làm giám định” (Điều 21). Sắc lệnh quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của phụ thẩm nhân dân rất cụ thể, họ “có bổn phận là lấy trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một cách công bằng không vì nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh vực ai hay làm hại ai. Các phụ thẩm nhân dân phải giữ kín các điều bàn bạc trong lúc nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy ra sẽ bị Toà thượng thẩm phạt từ sáu tháng đến hai năm tù”. Trước khi mở phiên toà các phụ thẩm nhân dân không được đọc hồ sơ, nhưng tại phiên toà họ có quyền yêu cầu ông Chánh án (Chủ toạ phiên toà) hỏi thêm các bị cáo và cho biết các tài liệu có trong hồ sơ. Ông Chánh án phải hỏi ý kiến các phụ thẩm về tội trạng của các bị cáo và về hình phạt rồi tự mình quyết định. Tuy nhiên, về các vấn đề thủ tục, tạm tha và các vấn đề khác liên quan đến hộ hay thương mại, ông Chánh án không phải hỏi ý kiến các phụ thẩm nhân dân.
Đối với các việc đại hình, khi xét xử Toà đệ nhị cấp gồm có năm người cùng ngồi xử và đều có quyền quyết nghị; đó là: Chánh án Toà đệ nhị cấp ngồi ghế Chánh án (Chủ toạ phiên toà); hai Thẩm phán làm phụ thẩm chuyên môn được chọn trong các Thẩm phán của Toà án đệ nhị cấp hay của Toà án sơ cấp trong quản hạt, do ông Chánh nhất Toà thượng thẩm chỉ định mỗi năm một lần. Tuy nhiên, trong năm, ông Chánh nhất có thể quyết định việc thay đổi hai vị phụ thẩm chuyên môn; hai phụ thẩm nhân dân được chọn bằng cách rút thăm ở danh sách các phụ thẩm nhân dân do Uỷ ban hành chính tỉnh hay thành phố lập vào hồi đầu năm.
Theo quy định tại Điều 34, thì Toà đại hình xử sơ thẩm, ông biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên Toà thượng thẩm.
d. Theo quy định ở tiết thứ tư thì ở mỗi kỳ, có một Toà thượng thẩm; Toà thượng thẩm ở Bắc Kỳ đặt ở Hà Nội; Toà thượng thẩm Trung Kỳ đặt ở Thuận Hoá (Huế); Toà thượng thẩm Nam Kỳ đặt ở Sài Gòn. Mỗi Toà thượng thẩm gồn có một Chánh nhất, các Chánh án phòng, các hội thẩm, một chưởng lý, một hay nhiều phó chưởng lý, những tham lý, một chánh lục sự, các lục sự, những tham tá và thư ký. Về cách tổ chức các Toà thượng thẩm và số các Chánh án, hội thẩm, phó chưởng lý, tham lý và lục sự ở mỗi Toà do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định “Khi phúc lại các án tiểu hình và đại hình, ngoài ông Chánh án và hai hội thẩm, phải có thêm hai phụ thẩm nhân dân có quyền quyết nghị và chọn bằng cách rút thăm... (Điều 38). Danh sách các phụ thẩm nhân dân tại Toà thượng thẩm có từ 50 đến 100 người chọn trong nhân dân kỳ và sẽ do Uỷ ban hành chính kỳ lập vào hồi đầu năm sau khi hỏi ý kiến ông chưởng lý. Trong việc đại hình, nếu trước Toà thượng thẩm một bị cáo không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật sư để bào chữa cho bị cáo.
đ. Về tổ chức các ngạch Thẩm phán gồm có hai ngạch Thẩm phán: ngạch sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Toà sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở các Toà đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Các Thẩm phán đệ nhị cấp chia ra làm hai chức vị: các Thẩm phán xử án do ông Chánh nhất Toà thượng thẩm đứng đầu và các Thẩm phán của công tố viện (Thẩm phán buộc tội) do ông chưởng lý đứng đầu. Khi xét xử, Thẩm phán quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án.
Trong Sắc lệnh này cũng quy định một cách rất cụ thể về tiêu chuẩn của Thẩm phán, cách tuyển chọn và đối tượng được tuyển chọn (bao gồm cả các quan lại cũ đã từng làm Thẩm phán, các lục sự Toà nam án đệ nhị cấp cũ), quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, kỷ luật đối với Thẩm phán và y phục của Thẩm phán.
2.1.2. Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan trong những ngày đầu mới giành chính quyền, việc xây dựng hệ thống Toà án theo Sắc lệnh 13 ngày 24-01-1946 chưa thực hiện được đầy đủ ở khắp các địa phương trong toàn quốc. Do đó, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 22-B ngày 18-12-1946 để quyền trợ cấp tư pháp cho Uỷ ban hành chính ở những nơi chưa đặt được Toà án biệt lập. Theo Sắc lệnh này, ở nơi nào chưa thiết lập được Toà án thì Uỷ ban hành chính sẽ kiêm việc tư pháp: Uỷ ban tỉnh có quyền hạn như Toà án đệ nhị cấp; Uỷ ban phủ, huyện, châu có quyền hạn như Toà án sơ cấp.
Ở tỉnh đương sự có quyền chống án lên Toà thượng thẩm (Điều 4) khi phúc thẩm, Toà thượng thẩm chỉ xét về nội dung vụ kiện, còn về hình thức, nếu có chỗ sai lầm mà không hại đến nội dung vụ án thì Toà thượng thẩm có thể tuỳ nghi công nhận hiệu lực của bản án bị kháng cáo như không có sự sai lầm ấy (Điều 5).
2.1.3. Tiếp theo Sắc lệnh số 13 ngày 24-01-1946, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các thành viên trong Toà án. Chương thứ nhất của Sắc lệnh quy định cụ thể về thẩm quyền các Toà án như sau:
a. Toà án sơ cấp có thẩm quyền:
· Về hình sự:
+ Chung thẩm:
- Những án phạt bạc từ 0đ50 đến 9đ00
- Những án xử bồi thường từ 150đ trở xuống cho nguyên đơn bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh.
+ Sơ thẩm:
- Những án phạt giam từ 1 đến 5 ngày;
- Những án xử bồi thường quá 150đ hoặc những việc xin bồi thường quá số tiền ấy, mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn khiếu hay chậm nhất, lúc việc vi cảnh đem ra phiên toà xử.
· Về dân sự và thương sự:
+ Chung thẩm:
- Những việc hiện dân sự, thương sự về động sản mà phá ngạch do nguyên đơn định không quá 150đ.
- Những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Toà án ấy, không cứ phá ngạch nào.
+) Sơ thẩm: Những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định trên 150đ nhưng dưới 450đ.
· Khi nào một bên nguyên cáo kiện một bên bị cáo mà cùng trong việc kiện có nhiều sự thỉnh cầu, nếu giá ngạch những sự thỉnh cầu cộng lại quá 450đ thì ông Thẩm phán sơ cấp không có thẩm quyền (điều thứ 7)
· Khi nào ông Thẩm phán sơ cấp thụ lý một việc kiện, nếu chiểu theo giá ngạch trong đơn trình, có quyền chung thẩm, mà lúc xét xử, lại nhận được đơn phản tố hay đơn xin đối khấu, thì tuy giá ngạch những đơn này có quá số chung thẩm, ông Thẩm phán sơ cấp đối với tất cả việc kiện cũng có quyền chung thẩm (điều thứ 8)
· Khi nhận được đơn kiện về dân sự hay thương sự, ông Thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử làm hoà giải. Biên bản hoà giải có hiệu lực công chứng thư (điều thứ 9).
b) Toà án đệ nhị cấp có thẩm quyền:
· Về hình sự:
+ Chung thẩm: Những án vi cảnh của Toà án sơ cấp bị kháng cáo.
+ Sơ thẩm: Những việc tiểu binh và đại binh. Những việc tiểu binh là những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9đ.
· Về dân sự và thương sự:
+ Chung thẩm:
- Những án của Toà sơ cấp bị kháng cáo;
- Những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá hôm khởi tố hay theo văn tự không quá 150đ;
- Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450đ nhưng dưới 750đ.
+ Sơ thẩm:
- Những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá hôm khởi tố hay theo văn tự trên 150đ;
- Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 750đ;
- Những việc kiện không thể định trước được giá ngạch;
- Những việc kiện không cứ giá ngạch là bao nhiêu mà phải có án nghĩ về thẩm quyền;
- Những việc kiện có quan hệ đến thân phận hay căn cước của người, hoặc về vấn đề tế tự.
c. Toà thượng thẩm:
Xét xử những việc kháng cáo án sơ thẩm của các toà đệ nhị cấp.
Phòng luận tội toà thượng thẩm họp ít nhất mỗi tuần lễ một lần, để xét xử việc kháng cáo những mệnh lệnh của các ông dự thẩm.
2.1.4. Như vậy, từ sau ngày 13-9-1945 đến sau ngày 24-01-1946, ở nước ta đã có 3 loại Toà án: Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt, Toà án thường. Nhằm giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án này, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 43 ngày 3-4-1946 lập ở mỗi kỳ “một hội đồng phân định thẩm quyền giữa Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt và Toà án thường”. Cụ thể như sau:
· Trụ sở các Hội đồng được đặt tại Hà Nội, Thuận Hoá và Sài Gòn.
· Thành phần của Hội đồng gồm có:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc người đại diện; Chủ tịch Uỷ ban hành chính kỳ làm chủ tịch;
- Chánh nhất toà Thượng thẩm và Chưởng lý toà Thượng thẩm làm thành viên;
- Một lục sự do ông Chưởng lý chỉ định giúp việc cho Hội đồng.
· Hội đồng có thẩm quyền phân định: Các việc phân tranh về thụ lý, về di lý giữa Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt và Toà án thường.
· Sắc lệnh cũng đã quy định cách thức giải quyết việc tranh chấp thẩm quyền giữa Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt và Toà án thường.
2.1.5. Ngày 9-11-1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta. Tại Chương VI bản Hiến pháp này quy định về “Cơ quan tư pháp”, theo đó Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm có: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm; các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Cao viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm (Điều 64). Về các nguyên tắc xét xử gồm có: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc đại hình (Điều 65); Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Toà án (Điều 66); các phiên Toà án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư (Điều 67); trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp (Điều 69)”.
Tuy nhiên, thực dân pháp trở lại xâm lược nước ta lần nữa, chiến tranh nổ ra, toàn quốc kháng chiến, nên hệ thống Toà án chưa tổ chức được theo Hiến pháp 1946.
Để đáp ứng công tác xét xử trong hoàn cảnh kháng chiến ngày 29-12-1946 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông lệnh số 12/NV-CT về tổ chức Tư pháp trong tình thế đặc biệt. Bản Thông lệnh này cùng với bản Thông lệnh số 6/NV-CT ngày 28-12-1946 về tổ chức chính quyền trong thời kỳ đặc biệt là những cơ sở pháp lý để tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án trong thời kỳ kháng chiến được linh hoạt. Toàn văn Thông lệnh số 12/NV-CT như sau:
“1) Ở mỗi khu, Bộ trưởng Tư pháp sẽ đặt một giám đốc tư pháp để trông coi việc tư pháp trong khu và giúp ý kiến cho Uỷ ban bảo vệ khu. Uỷ ban này mỗi khi ra quyết định gì có liên can đến tư pháp, bắt buộc phải hỏi ý kiến của giám đốc tư pháp. Giám đốc tư pháp đặt dưới quyền kiểm soát của Uỷ ban bảo vệ khu và trong trường hợp không liên lạc được với trung ương, thì giám đốc tư pháp đặt dưới quyền điều khiển của Uỷ ban bảo vệ khu.
2) Uỷ ban bảo vệ khu có uỷ nhiệm để thi hành quyền công tố sau khi hỏi ý kiến giám đốc tư pháp. Các biệ